I. MÔN TIẾNG VIỆT
Môn tiếng Việt lớp 5 chương trình GDPT 2018 được chia thành: đọc, nói và nghe, luyện từ và câu, viết đoạn văn, văn bản và vận dụng.
1. Về nội dung đọc, phần kỹ thuật đọc
Học sinh cần đọc đúng và diễn cảm các văn bản truyện, kịch bản, bài thơ, bài miêu tả, tốc độ đọc khoảng 90-100 tiếng trong 1 phút; đọc thầm với tốc độ nhanh hơn lớp 4; sử dụng được một số từ điển tiếng Việt thông dụng để tìm từ, nghĩa của từ, cách dùng từ và tra cứu thông tin khác; biết đọc theo những cách khác nhau (đọc lướt và đọc kỹ); ghi chép được vắn tắt những ý tưởng, chi tiết quan trọng vào phiếu đọc sách hoặc sổ tay. Phần đọc hiểu được chia ra thành 2 loại: văn bản văn học và văn bản thông tin.
+ Phần văn bản văn học, học sinh phải biết đọc hiểu nội dung của văn bản; chỉ ra được mối liên hệ giữa các chi tiết, biết tóm tắt văn bản; hiểu chủ đề của văn bản. Ngoài ra, học sinh còn phải biết đọc hiểu hình thức của văn bản, như nhận biết được văn bản viết theo tưởng tượng, viết về người thật, việc thật; nhận biết được thời gian, địa điểm và tác dụng của chúng trong câu chuyện. Học sinh biết liên hệ, so sánh, biết nhận xét về thời gian, địa điểm, hình dáng, tính cách của nhân vật qua hình ảnh trong truyện tranh hoặc phim hoạt hình; tìm được một cách kết thúc khác cho câu chuyện; nêu những điều học được từ câu chuyện, bài thơ, màn kịch; lựa chọn điều tâm đắc nhất và giải thích vì sao.
+ Phần văn bản thông tin, ở đọc hiểu nội dung, học sinh cần nhận biết được những chi tiết tiêu biểu và các thông tin chính của văn bản; dựa vào nhan đề và các đề mục lớn, xác định được đề tài, thông tin chính của văn bản; nhận biết được mối liên hệ giữa các chi tiết; biết tóm tắt văn bản. Ở đọc hiểu hình thức, học sinh phải nhận biết được mục đích và đặc điểm của văn bản giải thích về một hiện tượng tự nhiên, văn bản giới thiệu sách hoặc phim, văn bản quảng cáo; nhận biết được bố cục và các yếu tố của một văn bản thông tin đơn giản; nhận biết được vai trò của hình ảnh, ký hiệu hoặc số liệu trong việc thể hiện thông tin chính của văn bản. Ở liên hệ, so sánh, kết nối, học sinh phải nêu được những thay đổi trong hiểu biết, tình cảm, cách ứng xử của bản thân sau khi đọc văn bản.
2. Về nội dung viết, phần kỹ thuật viết
Học sinh phải biết viết hoa danh từ chung trong một số trường hợp đặc biệt; biết viết đúng tên người, tên địa lý nước ngoài. Phần viết đoạn văn, văn bản, học sinh phải đạt các yêu cầu về quy trình viết và thực hành viết. Ở quy trình viết, học sinh phải biết viết theo các bước: xác định mục đích và nội dung viết, quan sát và tìm tư liệu để viết, hình thành ý chính, lập dàn ý cho bài viết, viết đoạn, viết bài, chỉnh sửa; viết được đoạn văn, văn bản thể hiện rõ ràng và mạch lạc chủ đề, thông tin chính, phù hợp với yêu cầu về kiểu, loại, có mở đầu, triển khai, kết thúc, các câu, các đoạn liên kết với nhau. Ở thực hành viết, học sinh cần phải viết được bài văn kể lại câu chuyện đã đọc, đã nghe với những chi tiết sáng tạo; viết được bài tả người, phong cảnh có sử dụng so sánh, nhân hóa và những từ ngữ gợi tả để làm nổi bật đặc điểm của đối tượng được tả; viết được đoạn văn thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân trước một sự việc hoặc một bài thơ, câu chuyện; viết được đoạn văn nêu lý do vì sao tán thành hoặc phản đối về một hiện tượng, sự việc có ý nghĩa trong cuộc sống; viết được đoạn văn giới thiệu về một nhân vật trong một cuốn sách hoặc bộ phim hoạt hình; viết được báo cáo công việc, chương trình hoạt động.
3. Nội dung nói và nghe,
Bao gồm 3 phần: nói, nghe, nói nghe tương tác. Ở phần nói, học sinh phải điều chỉnh được lời nói cho phù hợp với người nghe; trình bày ý tưởng rõ ràng, có cảm xúc, có thái độ tự tin khi nói trước nhiều người, sử dụng lời nói, cử chỉ, điệu bộ thích hợp; sử dụng được các phương tiện hỗ trợ phù hợp để tăng hiệu quả biểu đạt; biết dựa trên gợi ý, giới thiệu về một di tích, một địa điểm tham quan hoặc một địa chỉ vui chơi. Ở phần nghe, học sinh cần biết vừa nghe vừa ghi những nội dung quan trọng từ ý kiến của người khác; nhận biết được một số lý lẽ và dẫn chứng mà người nói sử dụng để thuyết phục người nghe. Ở phần nói nghe tương tác, học sinh phải biết thảo luận về một vấn đề có các ý kiến khác biệt; biết dùng lý lẽ và dẫn chứng để thuyết phục người đối thoại, biết tôn trọng sự khác biệt trong thảo luận, thể hiện sự nhã nhặn, lịch sự khi trình bày ý kiến trái ngược với người khác.
4. Nội dung luyện từ và câu,
Học sinh sẽ được học quy tắc viết tên người, tên địa lý nước ngoài; một số trường hợp viết hoa danh từ chung để thể hiện sự tôn trọng đặc biệt; vốn từ theo chủ điểm; sử dụng từ điển; nghĩa của một số thành ngữ dễ hiểu, thông dụng; từ đồng nghĩa; từ đa nghĩa và nghĩa của từ đa nghĩa trong văn bản; đại từ và kết từ; câu đơn và câu ghép; công dụng của dấu gạch ngang, dấu gạch nối; biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ: đặc điểm và tác dụng; liên kết giữa các câu trong một đoạn văn, một số biện pháp liên kết câu và các từ ngữ liên kết.
5. Hoạt động vận dụng
Hoạt động vận dụng là hoạt động giúp học sinh vận dụng các nội dung đã học vào thực tế đời sống, kết hợp phát triển ngôn ngữ cho học sinh với hình thức phong phú, nội dung đa dạng.
Tóm lại: Môn tiếng Việt lớp 5 chương trình GDPT 2028 với nhiều yêu cầu cần đạt mới, đòi hỏi rất nhiều công sức và tâm huyết của các thầy cô giáo giảng dạy lớp 5. Chính vì thế, các thầy cô giáo với tình yêu thương học trò, với tâm thế đổi mới giáo dục toàn diện cần phải nỗ lực, nỗ lực và nỗ lực nhiều hơn để cùng học sinh hoàn thành tốt các yêu cầu cần đạt của bộ môn tiếng Việt.
II. MÔN TOÁN
1. Về các mạch kiến thức:
- Chương trình môn Toán năm 2018 xác định 3 mạch kiến thức cơ bản: Số và phép tính; Hình học và đo lường; Một số yếu tố Thống kê và Xác suất. Trong khi đó Chương trình môn Toán năm 2006 bao gồm 4 mạch kiến thức cơ bản: Số học; Yếu tố hình học; Đại lượng và đo đại lượng; Giải bài toán có lời văn. Như vậy, so với chương trình năm 2006, chương trình năm 2018 có mạch kiến thức Một số yếu tố Thống kê và Xác suất, nhưng không có mạch Giải bài toán có lời văn.
- Việc không có mạch Giải bài toán có lời văn là nhằm thể hiện, một mặt là lồng ghép vào các mạch kiến thức tương ứng theo hướng tính tinh giản cách dạy việc giải bài toán, không theo thủ thuật, mẹo mực lắt léo mà tập trung vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày của học sinh; mặt khác, bỏ bớt một số dạng bài toán không cần thiết phải học ở cấp Tiểu học
- Chương trình môn Toán năm 2018 xác định mạch Một số yếu tố Thống kê và Xác suất với quan điểm hiện đại, tiếp cận với xu hướng phát triển của toán học thế giới, khẳng định lại tiến trình dạy học yếu tố Thống kê ở tiểu học và bước đầu đưa một số yếu tố Xác xuất vào chương trình môn Toán (từ lớp 2).
- Cách trình bày các nội dung của từng mạch kiến thức thể hiện rõ nét tiến trình dạy học phù hợp quá trình nhận thức của học sinh, khắc phục cách liệt kê từng nội dung cụ thể. Ví dụ,ở lớp 5:
+ Mạch kiến thức “Số thập phân” được trình bày theo tiến trình: Số thập phân và so sánh các số thập phân; Các phép tính và tính chất của các phép tính với số thập phân; Giải quyết vấn đề gắn với việc giải các bài toán liên quan đến các phép tính với các số thập phân.
+ Mạch kiến thức “Hình học trực quan” được trình bày theo tiến trình: Quan sát, nhận biết, mô tả hình dạng và đặc điểm; Thực hành vẽ, lắp ghép, tạo hình gắn với một số hình phẳng và hình khối đã học; Liên hệ kiến thức hình học với đời sống thực tiễn và nội dung liên quan đến các môn học như Mĩ thuật, Công nghệ, Tin học.
- Chương trình môn Toán năm 2018 có thêm Hoạt động thực hành và trải nghiệm, đây được xem như là một mạch mới trong chương trình môn Toán nhằm tăng cường khả năng liên hệ, vận dụng kiến thức, kĩ năng toán học vào thực tiễn, gắn kết toán học và thực tiễn;tăng cường khả năng “học qua trải nghiệm” cho học sinh.
2. Về các nội dung chi tiết:
- Chú ý đến việc ôn tập, hệ thống hóa các kiến thức, kĩ năng về số tự nhiên, phân số đã được học ở các lớp trước.
- Tinh giản ở nội dung dạy học về Hỗn số (chỉ làm quen với hỗn số và viết được phân số thập phân dưới dạng hỗn số); về các phép tính nhân, chia trên các số thập phân (do giảm nhân, chia với số tự nhiên có không quá 2 chữ số ở lớp 4); không giới thiệu các đơn vị đo diện tích không phổ biến trong thực tế như đề-ca-mét vuông (dam2), héc-tô-mét vuông (hm2); không giới thiệu đơn vị đo vận tốc m/phút; không dạy giải các bài toán liên quan đến tương quan tỉ lệ thuận, tỉ lệ nghịch, bài toán thứ ba về tỉ số phần trăm (tìm một số khi biết trước giá trị phần trăm của nó), bài toán về hai chuyển động cùng chiều, hai chuyển động ngược chiều; giảm nội dung về nhận biết và đặc điểm của hình hộp chữ nhật, hình lập phương.
- Chuyển một số kiến thức (được đặt ở lớp 4 của chương trình năm 2006) như: tỉ số, tỉ lệ bản đồ, đơn vị diện tích ki-lô-mét vuông (km2), giải bài toán thực tiễn liên quan đến tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số. Ngoài ra bổ sung thêm biểu tượng tam giác đều,; hình khai triển của hình trụ; ….